Đu Đưa
Sân nhà tôi có một cái xích đu bằng sắt. Cái xích đu cũ lắm rồi, chắc chỉ nhỏ hơn tôi vài ba tuổi. Nó cứ chễm chệ đứng ở khoảng tường trống trước nhà, chào cái nắng sớm ban mai, đón cái nắng màu cam của hoàng hôn, rồi chìm đi trong bóng tối khi mặt trời trốn mất. Nó là một cái vòng tròn sắt có viền là những hoạ tiết uốn lượn, ở giữa là một băng ghế, cũng bằng sắt nốt, được treo lên bằng bốn sợi xích đan nhau trông điệu đà như chỗ ngồi của một cô công chúa. Lớp sơn đầu của chiếc xích đu có màu be, âm ấm ẩn mình dưới ánh nắng. Những năm sau đó, như một con người lớn lên phải thay da đổi thịt, nó được sơn lên những lớp sơn mới, cho đến giờ là một màu tím khiến người ta nhìn vào thấy có chút gì đó buồn buồn. Cái buồn lãng vãng đó mang những ngày cũ đặt lên băng ghế xích đu, để rồi khi nó đu đưa theo gió, chúng sẽ không nói không rằng mà trôi đi theo mất.
Tôi hay “đóng đô” trên cái xích đu vào những buổi hè oi bức, khi mà bài tập về nhà và trường học là hai thứ bị quăng vào một góc tủ bé tẹo nào đó, khoá kín lại, để chúng không tìm cách mò ra chiếm hết đầu óc của mình. Tôi sẽ ngồi đó hàng giờ liền, bên cạnh là một chồng sách to ụ từ truyện tranh đến Harry Potter, và một chiếc máy nghe nhạc cũ. Khi mắt dần mỏi vì đọc sách hay cảm thấy cái nắng hiu hiu mùa hè như muốn ru con người ta vào giấc mộng, tôi lại bật lên một bản nhạc nào đó rồi thả hồn mình đu đưa theo cái đánh nhịp nhàng của chiếc đu.
Có những buổi sáng nắng đổ rực khắp nơi, ông nội ngồi trên cái ghế mây bên cạnh đọc báo. Đôi lúc ngó sang, tôi bật cười khi thấy ông ngủ gục dưới cái nắng yên bình và cái nhẹ nhàng, phớt phơ của cơn gió thoáng qua. Cũng có lúc, ông lại đặt tờ báo xuống, quay sang kể tôi nghe những chuyện ngày xưa. Kể từ mùa hè bốn năm về trước, sau khi bà nội mất, ông luôn kể về bà. Ông sẽ bảo “Nhớ bà nội quá!” bằng chất giọng khan khan, ồm ồm của một người lớn tuổi, rồi đưa mắt nhìn về đâu đó như thể chính ông cũng bị những nhịp xích đu đưa về nơi có người phụ nữ ông thương.
Vào cái mùa hè năm đó, tôi cùng ông đếm những nhịp đu đưa để quay vòng về những buổi chiều bà nội ngồi cười cười trên chiếc xích đu sắt, chờ tôi bước vào nhà sau khi tan trường. Vào mùa hè năm đó, dưới những cơn mưa rả rích của Sài Gòn, tôi ngồi nhìn những giọt nước mưa bắn tung toé lên hoa văn màu tím, nhỏ xuống, thấm vào tim lạnh ngắt.
Mùa hè một năm sau đó, tôi ngồi trên chiếc xích đu, ráng níu kéo những nhịp đưa quen thuộc trước một hành trình mới. Sợ hãi, do dự, háo hức, phân vân. Đầu óc tôi chạy rần với vô số dự định. Tôi nhớ cái ngày mình bước chân ra khỏi nhà, trên chiếc xích đu cũ là cái ba lô nặng trịch ngồi chờ tôi xỏ vào chân đôi giầy mới. Ông đứng cạnh chiếc ghế mây nhìn sang. Ánh mắt ông lúc đó thế nào, tôi không biết, vì đã không dám nhìn, chỉ sợ mình sẽ lại đóng cửa để tiếp tục trôi theo những nhịp đu đưa quen thuộc.
Mùa hè tiếp đến, tôi về nhà. Mọi thứ vẫn thế, vẫn là chồng sách truyện đặt bên cạnh chiếc máy nghe nhạc; vẫn là cái nắng trưa oi ả rọi lên đỉnh đầu khiến người ta choáng váng; vẫn là ông ngồi trên chiếc ghế mây đọc báo. Ông nhắc tới bà, không như một thói quen, mà như cố gắng muốn tìm lại một phần nào đó của chính mình. Tôi lại lắng nghe, để cho giọng nói khàn khàn đó thấm sâu vào lòng như những giọt mưa năm nào.
Năm thứ hai xa nhà, tôi lại quay về vào mùa hè bên chiếc xích đu tím. Ông vừa khoẻ lại sau một trận ốm thập tử nhất sinh. Ai ai cũng trầm trồ bảo ông vẫn như xưa, vẫn khoẻ mạnh ở cái tuổi 90 một cách kì diệu. Tôi mừng vì ông vẫn khoẻ, nhưng giữa những buổi trưa im ắng, ông vẫn ngước nhìn xa xăm như muốn thấy bà vẫn ngồi đó cười, như để sự trống trải trong tâm trí được những nhịp đu đưa lắp đầy. Mùa hè đó trở về nhà, đứng trước tấm ảnh di niệm của bà nội, tôi đã để bà đi. Tôi không quên bà, chỉ là nỗi buồn nhớ dằn vặt, ám ảnh bỗng không còn, giống như bà đã ôm tôi một cái thật ấm và gỡ bỏ sự buồn bã đó, thả nó tan vào với nắng hè chói chang.
Ông vẫn nhắc về bà, vẫn với một nỗi buồn dai dẳng như thế. Những lúc như thế, tôi tự hỏi sao ông không để bà đi như cách tôi đã làm, sao ông vẫn nhắc hoài những câu chuyện buồn không thôi. Như một bản năng kì cục nào đó, tôi bắt đầu né tránh những câu chuyện của ông. Ông nội vẫn ngồi cạnh, cho tôi một nụ cười thật hiền, kể chuyện ngày xưa, cho đến khi trời sang thu, và tôi lại xách hành lí mà rời đi.
Mùa hè năm cuối cấp là một mùa hè dài. Ông cùng ba ra tận sân bay đông đúc đón tôi về lúc 11 giờ đêm. Tôi cười khi mái tóc của ba giờ đây cũng bạc trắng như mái tóc bông gòn của ông, khiến hai người dù đứng từ xa nhưng vẫn nổi bần bật. Trưa hôm sau, khi đã yên vị ngồi đu đưa trên chiếc xích đu quen thuộc, tôi lại nghe ông kể chuyện bà nội. Sự ích kỷ nhen nhóm trong lòng làm tôi muốn tránh đi câu chuyện buồn của ông. Tôi gật gù theo lời kể của ông, để rồi khi quay lưng bỏ xuống bếp, tôi lại thấy ông ngồi đó đọc báo, đôi mắt nay đã mờ đục lướt chậm rãi qua từng hàng chữ. Bốn năm trước cũng vậy, bây giờ cũng vậy, ông vẫn ngồi trong khung cảnh như đứng lại trước thời gian vốn trôi vùn vụt ngoài kia. Mà có lẽ đối với ông, thời gian đã ngừng trôi lâu rồi.
Cái xích đu vẫn đu đưa trong gió. Tôi trở về trong những mùa hè, hoà vào cái nhịp điệu quen thuộc, du dương đó cùng ông. Khi tôi rời đi theo những mùa hè chóng vánh, ông vẫn ngồi đó đợi chờ. Chờ một đứa cháu đi xa, chờ một ngày cũ trở về.
Giữa những nhịp đu đưa, tôi lại mở lòng để những câu chuyện xưa qua lời ông kể lại một lần nữa thấm sâu vào. Lần này, chúng ấm như giọt nắng chiều đổ xuống những cái cây trong vườn, khiến cái màu xanh lục bật lên giữa màu vàng rực rỡ.
Theo những nhịp đu đưa, tôi dắt tay ngày cũ đón những ngày mới, những ngày mới có ông quay sang tặng một nụ cười thật hiền.
N.T.H
Sài Gòn, June 13, 2018
“Come Home"- One Republic
Có những buổi sáng nắng đổ rực khắp nơi, ông nội ngồi trên cái ghế mây bên cạnh đọc báo. Đôi lúc ngó sang, tôi bật cười khi thấy ông ngủ gục dưới cái nắng yên bình và cái nhẹ nhàng, phớt phơ của cơn gió thoáng qua. Cũng có lúc, ông lại đặt tờ báo xuống, quay sang kể tôi nghe những chuyện ngày xưa. Kể từ mùa hè bốn năm về trước, sau khi bà nội mất, ông luôn kể về bà. Ông sẽ bảo “Nhớ bà nội quá!” bằng chất giọng khan khan, ồm ồm của một người lớn tuổi, rồi đưa mắt nhìn về đâu đó như thể chính ông cũng bị những nhịp xích đu đưa về nơi có người phụ nữ ông thương.
Vào cái mùa hè năm đó, tôi cùng ông đếm những nhịp đu đưa để quay vòng về những buổi chiều bà nội ngồi cười cười trên chiếc xích đu sắt, chờ tôi bước vào nhà sau khi tan trường. Vào mùa hè năm đó, dưới những cơn mưa rả rích của Sài Gòn, tôi ngồi nhìn những giọt nước mưa bắn tung toé lên hoa văn màu tím, nhỏ xuống, thấm vào tim lạnh ngắt.
Mùa hè một năm sau đó, tôi ngồi trên chiếc xích đu, ráng níu kéo những nhịp đưa quen thuộc trước một hành trình mới. Sợ hãi, do dự, háo hức, phân vân. Đầu óc tôi chạy rần với vô số dự định. Tôi nhớ cái ngày mình bước chân ra khỏi nhà, trên chiếc xích đu cũ là cái ba lô nặng trịch ngồi chờ tôi xỏ vào chân đôi giầy mới. Ông đứng cạnh chiếc ghế mây nhìn sang. Ánh mắt ông lúc đó thế nào, tôi không biết, vì đã không dám nhìn, chỉ sợ mình sẽ lại đóng cửa để tiếp tục trôi theo những nhịp đu đưa quen thuộc.
Mùa hè tiếp đến, tôi về nhà. Mọi thứ vẫn thế, vẫn là chồng sách truyện đặt bên cạnh chiếc máy nghe nhạc; vẫn là cái nắng trưa oi ả rọi lên đỉnh đầu khiến người ta choáng váng; vẫn là ông ngồi trên chiếc ghế mây đọc báo. Ông nhắc tới bà, không như một thói quen, mà như cố gắng muốn tìm lại một phần nào đó của chính mình. Tôi lại lắng nghe, để cho giọng nói khàn khàn đó thấm sâu vào lòng như những giọt mưa năm nào.
Năm thứ hai xa nhà, tôi lại quay về vào mùa hè bên chiếc xích đu tím. Ông vừa khoẻ lại sau một trận ốm thập tử nhất sinh. Ai ai cũng trầm trồ bảo ông vẫn như xưa, vẫn khoẻ mạnh ở cái tuổi 90 một cách kì diệu. Tôi mừng vì ông vẫn khoẻ, nhưng giữa những buổi trưa im ắng, ông vẫn ngước nhìn xa xăm như muốn thấy bà vẫn ngồi đó cười, như để sự trống trải trong tâm trí được những nhịp đu đưa lắp đầy. Mùa hè đó trở về nhà, đứng trước tấm ảnh di niệm của bà nội, tôi đã để bà đi. Tôi không quên bà, chỉ là nỗi buồn nhớ dằn vặt, ám ảnh bỗng không còn, giống như bà đã ôm tôi một cái thật ấm và gỡ bỏ sự buồn bã đó, thả nó tan vào với nắng hè chói chang.
Ông vẫn nhắc về bà, vẫn với một nỗi buồn dai dẳng như thế. Những lúc như thế, tôi tự hỏi sao ông không để bà đi như cách tôi đã làm, sao ông vẫn nhắc hoài những câu chuyện buồn không thôi. Như một bản năng kì cục nào đó, tôi bắt đầu né tránh những câu chuyện của ông. Ông nội vẫn ngồi cạnh, cho tôi một nụ cười thật hiền, kể chuyện ngày xưa, cho đến khi trời sang thu, và tôi lại xách hành lí mà rời đi.
Mùa hè năm cuối cấp là một mùa hè dài. Ông cùng ba ra tận sân bay đông đúc đón tôi về lúc 11 giờ đêm. Tôi cười khi mái tóc của ba giờ đây cũng bạc trắng như mái tóc bông gòn của ông, khiến hai người dù đứng từ xa nhưng vẫn nổi bần bật. Trưa hôm sau, khi đã yên vị ngồi đu đưa trên chiếc xích đu quen thuộc, tôi lại nghe ông kể chuyện bà nội. Sự ích kỷ nhen nhóm trong lòng làm tôi muốn tránh đi câu chuyện buồn của ông. Tôi gật gù theo lời kể của ông, để rồi khi quay lưng bỏ xuống bếp, tôi lại thấy ông ngồi đó đọc báo, đôi mắt nay đã mờ đục lướt chậm rãi qua từng hàng chữ. Bốn năm trước cũng vậy, bây giờ cũng vậy, ông vẫn ngồi trong khung cảnh như đứng lại trước thời gian vốn trôi vùn vụt ngoài kia. Mà có lẽ đối với ông, thời gian đã ngừng trôi lâu rồi.
Cái xích đu vẫn đu đưa trong gió. Tôi trở về trong những mùa hè, hoà vào cái nhịp điệu quen thuộc, du dương đó cùng ông. Khi tôi rời đi theo những mùa hè chóng vánh, ông vẫn ngồi đó đợi chờ. Chờ một đứa cháu đi xa, chờ một ngày cũ trở về.
Giữa những nhịp đu đưa, tôi lại mở lòng để những câu chuyện xưa qua lời ông kể lại một lần nữa thấm sâu vào. Lần này, chúng ấm như giọt nắng chiều đổ xuống những cái cây trong vườn, khiến cái màu xanh lục bật lên giữa màu vàng rực rỡ.
Theo những nhịp đu đưa, tôi dắt tay ngày cũ đón những ngày mới, những ngày mới có ông quay sang tặng một nụ cười thật hiền.
N.T.H
Sài Gòn, June 13, 2018
“Come Home"- One Republic
Nhận xét
Đăng nhận xét